Bệnh không lây nhiễm là gì? Các công bố khoa học về Bệnh không lây nhiễm

Bệnh không lây nhiễm là loại bệnh không có khả năng lây truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc hoặc truyền qua đường hô hấp. Thông thường, bệnh ...

Bệnh không lây nhiễm là loại bệnh không có khả năng lây truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc hoặc truyền qua đường hô hấp. Thông thường, bệnh không lây nhiễm do các yếu tố khác như di truyền, môi trường sống không tốt, chế độ ăn uống không đầy đủ hoặc các yếu tố nội tiết. Ví dụ về bệnh không lây nhiễm là tiểu đường, bệnh mỡ máu cao, bệnh tăng huyết áp, bệnh tim mạch, và một số loại ung thư.
Các bệnh không lây nhiễm có thể có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong cơ thể hoặc từ yếu tố môi trường. Dưới đây là những ví dụ chi tiết về một số bệnh không lây nhiễm:

1. Tiểu đường: Là một bệnh nội tiết do cơ thể không thể sản xuất đủ insulin hoặc không thể sử dụng insulin tốt. Bệnh tiểu đường thường gây tăng đường huyết, gây tổn thương cho các cơ quan và mạch máu trong cơ thể. Tiểu đường thường được kiểm soát bằng cách duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, sinh hoạt hợp lý và việc sử dụng insulin hoặc thuốc đường máu.

2. Bệnh mỡ máu cao (huyết trường): Đây là một tình trạng y khoa khi mức cholesterol và triglyceride trong máu cao hơn mức bình thường. Yếu tố di truyền, chế độ ăn uống không lành mạnh, thiếu vận động và một số yếu tố khác có thể gây ra bệnh mỡ máu cao. Bệnh mỡ máu cao tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và đột quỵ.

3. Bệnh tăng huyết áp: Bệnh tăng huyết áp có nghĩa là áp lực trong mạch máu của bạn lớn hơn mức bình thường. Đây có thể gây ra các vấn đề tim mạch, nhưnh suy tim, đột quỵ và các vấn đề thận. Tăng huyết áp có thể do di truyền, lối sống không lành mạnh, và một số yếu tố khác.

4. Ung thư: Đây là tình trạng bất thường trong quá trình tăng trưởng và phân chia tế bào, gây hủy hoại các cơ quan và mạch máu trong cơ thể. Có nhiều loại ung thư khác nhau, mỗi loại ung thư có nguyên nhân và yếu tố rủi ro riêng. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp ung thư không lây nhiễm và do yếu tố di truyền hoặc môi trường.

Điều quan trọng là nhận biết và điều trị các bệnh không lây nhiễm này kịp thời để giảm nguy cơ và duy trì sức khỏe tốt. Việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ, duy trì lối sống lành mạnh và tuân thủ các chỉ định từ bác sĩ là cách tốt nhất để điều trị và phòng ngừa các bệnh không lây nhiễm.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh không lây nhiễm":

Nguyên nhân gây bệnh đốm trắng, một bệnh gây chết của san hô nhánh Eo Caribê, Acropora palmata Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 99 Số 13 - Trang 8725-8730 - 2002

Quần thể san hô nhánh Eo Caribê sống ở khu vực nước cạn, Acropora palmata , đang bị tiêu diệt bởi bệnh đốm trắng, với mức độ mất đi lớp phủ sống ở vùng Florida Keys thường vượt quá 70%. Tốc độ mất mô diễn ra nhanh chóng, trung bình đạt 2,5 cm 2 mỗi ngày −1 , và đạt đỉnh cao nhất trong các giai đoạn có nhiệt độ tăng cao theo mùa. Tại Florida, sự lan rộng của bệnh đốm trắng tuân theo mô hình lây nhiễm, với các vị trí gần nhất dễ bị nhiễm bệnh nhất. Trong báo cáo này, chúng tôi xác định một loại vi khuẩn ruột phổ biến, Serratia marcescens , là tác nhân gây ra bệnh đốm trắng. Đây là lần đầu tiên, theo hiểu biết của chúng tôi, rằng một loài vi khuẩn liên quan đến ruột người đã được chứng minh là một mầm bệnh đối với động vật không xương sống biển.

#san hô nhánh Eo Caribê #bệnh đốm trắng #<i>Acropora palmata</i> #<i>Serratia marcescens</i> #Florida #vi khuẩn đường ruột #động vật không xương sống biển #dịch bệnh san hô #lây nhiễm.
Những thách thức và tiêu chuẩn hóa việc phân tích microRNA trong huyết thanh và dịch não tủy ở chó mắc bệnh viêm não không lây nhiễm Dịch bởi AI
Acta Veterinaria Scandinavica - Tập 61 Số 1 - 2019
Tóm tắt

Các tình trạng bệnh lý viêm não không lây nhiễm (NII) chủ yếu được chẩn đoán qua việc phát hiện các thay đổi viêm trong dịch não tủy (CSF). Tuy nhiên, cần có các phương pháp ít xâm lấn hơn và các chỉ số sinh học ngoại biên. Sự thay đổi của các microRNA lưu hành (miRNA), là các RNA điều hòa ngắn không mã hoá có thể đóng vai trò như các chỉ số bệnh lý. Mục tiêu của nghiên cứu thí điểm này là điều tra các miRNA đã chọn trong huyết thanh và CSF, với giả thuyết rằng nồng độ của các miRNA cụ thể trong huyết thanh tương quan với sự hiện diện của chúng trong CSF, và rằng sự thay đổi nồng độ miRNA trong huyết thanh có thể phản ánh bệnh lý ở hệ thần kinh trung ương (CNS). Chúng tôi đã phân tích mẫu huyết thanh và CSF bằng phương pháp PCR thời gian thực định lượng (qPCR) tìm kiếm các miRNA đã chọn và được phân tích trước đó trong huyết thanh (let-7a, let-7c, miR-15b, miR-16, miR-21, miR-23a, miR-24, miR-26a, miR-146a, miR-155, miR-181c và miR-221-3p) và trong CSF (let-7c, miR-16, miR-21, miR-24, miR-146a, miR-155, miR-181c và miR-221-3p) từ 13 con chó mắc bệnh NII ở CNS và sáu con chó đối chứng. Chúng tôi đã chứng minh sự hiện diện của một số miRNA trong CSF (let-7c và miR-21 là chủ yếu) và huyết thanh (miR-23a và miR-21 là chủ yếu). Tuy nhiên, chúng tôi đã không tái tạo được kết quả nhất quán trong các mẫu CSF do một số lý do: hiệu suất PCR không thể chấp nhận, sự biến động lớn giữa các bản sao cDNA và/hoặc không khuếch đại trong qPCR cho thấy nồng độ rất thấp của các miRNA được nghiên cứu trong CSF của chó. Các mẫu huyết thanh cho kết quả tốt hơn, và 10 bài kiểm tra qPCR của miRNA đã được đủ điều kiện cho phân tích. Dù vậy, chúng tôi vẫn không thể phát hiện sự khác biệt trong mức độ biểu hiện của các miRNA giữa các trường hợp và đối chứng. Hơn nữa, chúng tôi không thể xác nhận các kết quả từ các nghiên cứu gần đây về miRNA của các bệnh lý CNS ở chó. Chúng tôi tin rằng những bất đồng này nêu bật tác động đáng kể của sự biến thiên phương pháp/analytical, chứ không phải là sức mạnh kém của các miRNA lưu hành như là chỉ số của bệnh lý CNS. Một mục tiêu thứ cấp vì thế là truyền đạt những thách thức phương pháp trong nghiên cứu của chúng tôi và đề xuất các khuyến nghị cho việc phân tích miRNA lưu hành, bao gồm các phương pháp trước, sau và phân tích dựa trên kinh nghiệm của chúng tôi, để đạt được những kết quả có thể tái sản xuất và so sánh trong nghiên cứu miRNA thú y.

THỰC TRẠNG MỘT SỐ BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM PHỔ BIẾN Ở NGƯỜI CAO TUỔI TỈNH PHÚ THỌ NĂM 2024
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 545 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu: Mô tả thực trạng một số bệnh không lây nhiễm (KLN) phổ biến ở người cao tuổi tỉnh Phú Thọ năm 2024. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 4992 người cao tuổi (NCT) (từ 60 tuổi trở lên) có hộ khẩu và đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ tham gia khám sàng lọc và trả lời bộ câu hỏi phỏng vấn thiết kế sẵn. Kết quả: Tỷ lệ NCT mắc tăng huyết áp THA) chiếm 38,1%, mắc đái tháo đường (ĐTĐ) là 8,8% và COPD là 3,9%. NCT có nhóm tuổi 60 – 69 tuổi và trình độ học vấn là Tiểu học và THCS có tỷ lệ mắc một số bệnh không lây nhiễm phổ biến cao nhất. Kết luận: Cần nâng cao kiến thức, kỹ năng nhằm dự phòng, phát hiện sớm và quản lý một số bệnh KLN phổ biến ở NCT.
#người cao tuổi #bệnh không lây nhiễm #tăng huyết áp #đái tháo đường #COPD
30. SO SÁNH HÀNH VI NGUY CƠ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ SINH CHUYỂN HÓA CỦA BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM Ở NGƯỜI DÂN LAO ĐỘNG PHỔ THÔNG TẠI MỘT SỐ VÙNG CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 66 Số 1 - Trang - 2025
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và so sánh các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm ở người dân lao động phổ thông thuộc một số vùng sinh thái tỉnh Thừa Thiên Huế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 739 người dân lao động phổ thông từ 10/2023 đến 12/2023. Nghiên cứu sử dụng công cụ điều tra các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm của WHO bao gồm: hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực, chế độ ăn không hợp lý, sử dụng đồ uống có cồn, tăng huyết áp, thừa cân béo phì, đái tháo đường và rối loạn lipid máu Kết quả: Hút thuốc lá, sử dụng rượu bia ở mức độ cho phép, sử dụng không đủ rau xanh/ hoa quả, ăn mặn chiếm lần lượt 29,8%; 96,8%; 70,2%; 77,8% và 16,5%. Tỷ lệ thừa cân/ béo phì, đái tháo đường, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu chiếm lần lượt 23,2%; 5,1%; 43,7% và 58,9%. Chế độ ăn rau xanh/ hoa quả, hoạt động thể lực, thừa cân/ béo phì và đái tháo đường có sự khác nhau giữa các vùng sinh thái. Kết luận: Các yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm có sự khác biệt giữa ba vùng sinh thái, do đó cần có những giải pháp can thiệp phù hợp làm giảm yếu tố nguy cơ với đặc điểm của mỗi vùng.
#Bệnh không lây nhiễm #hành vi nguy cơ #tăng huyết áp #đái tháo đường #rối loạn lipid
TÌNH HÌNH TỬ VONG CÁC BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM TẠI TỈNH TRÀ VINH NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Bệnh không lây nhiễm (BKLN) là nhóm bệnh, gây ảnh hưởng nặng đến sức khỏe cộng đồng và sự phát triển kinh tế xã hội do số người mắc bệnh cao, bệnh gây nhiều hậu quả nghiêm trọng và có thể dẫn đến tử vong. Việc hiểu về các đặc điểm phân bố, tỷ lệ tử vong nhóm bệnh không lây tại địa bàn Tỉnh Trà Vinh sẽ góp phần vào các chương trình phòng chống, chiến lược điều trị bệnh trong cộng đồng. Mục tiêu: Mô tả sự phân bố theo số lượng và tỷ lệ phần trăm người tử vong do các bệnh không lây nhiễm ở các độ tuổi của 4 nhóm bệnh không lây nhiễm chính bao gồm đái tháo đường, ung thư, các bệnh tim mạch và bệnh hô hấp mạn tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các trường hợp tử vong tại địa bàn tỉnh Trà Vinh trong thời gian ngày 1/1/2021 – 30/12/2021. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ đang điều trị và tỷ lệ phát hiện mới ở nhóm bệnh tăng huyết áp (7,1% và 2,8%), ung thư (18,7% và 0,4%) là 2 bệnh lí có tỷ lệ cao hơn so với các bệnh lí còn lại. Số lượng tử vong trong năm 2021 do bệnh tăng huyết (726), ung thư (285) chiếm số lượng cao nhất. Trong đó tỷ lệ tử vong giữa nam và nữa ở các nhóm bệnh tương đương với nhau. Kết luận: Tỷ lệ người dân đang mắc một số BKLN có các hành vi điều trị và dự phòng phù hợp là đáng báo động. Cần có những giải pháp can thiệp giúp người dân nhận thức được tầm quan trọng của việc điều trị và dự phòng bệnh tật.
#Bệnh không lây nhiễm #đái tháo đường #ung thư #tăng huyết áp #bệnh hô hấp mãn tính
Hành vi nguy cơ bệnh không lây nhiễm và một số yếu tố liên quan ở người dân từ 25 đến 84 tuổi tại tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2020
Tạp chí Y học Dự phòng - Tập 31 Số 3 - Trang 18-27 - 2021
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1593 người dân từ 25 - 84 tuổi với mục tiêu nhằm xác định tỷ lệ các hành vi nguy cơ của bệnh không lây nhiễm và một số yếu tố liên quan đến các hành vi nguy cơ đó tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Bộ câu hỏi STEPS của Tổ chức Y tế Thế giới được sử dụng để đánh giá hành vi nguy cơ của bệnh không lây nhiễm, bao gồm hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực, chế độ ăn không hợp lý và sử dụng đồ uống có cồn. Phân tích số liệu được tiến hành bằng phần mềm SPSS 20.0 và sử dụng mô hình hồi quy đa biến để xác định mối liên quan. Kết quả cho thấy hành vi nguy cơ chiếm tỷ lệ cao nhất là không ăn đủ rau/trái cây (76,9%), tiếp theo là thiếu hoạt động thể lực (23,7%), hút thuốc lá (22,7%) và uống rượu/bia ở mức nguy hại (12,1%). Đa số người dân có 1 - 2 hành vi nguy cơ (78,0%). Có mối liên quan giữa giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn và hành vi hút thuốc lá; giữa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đặc điểm kinh tế hộ gia đình và hành vi uống rượu/bia ở mức nguy hại; giữa tuổi và hành vi ăn không đủ rau/trái cây; giữa tuổi, nghề nghiệp và hành vi ăn thiếu hoạt động thể lực. Cần tăng cường các chương trình can thiệp, phòng chống bệnh không lây nhiễm nhằm hạn chế các hành vi nguy cơ.
#Bệnh không lây nhiễm #hành vi nguy cơ #Thừa Thiên Huế
Thực trạng bệnh không lây nhiễm ở người cao tuổi và các yếu tố hành vi nguy cơ tại một số xã tỉnh Hà Nam năm 2018
Mục tiêu: Mô tả thực trạng bệnh không lây nhiễm của người cao tuổi và mô tả một số yếu tố hành vi nguy cơ bệnh không lây nhiễm của người cao tuổi tại một số xã tỉnh Hà Nam năm 2018. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Các kết quả chính: 51% người cao tuổi có mắc bệnh không lây nhiễm. Tỷ lệ người cao tuổi mắc các bệnh tim mạch là cao nhất với 41,3%, tiếp theo là bệnh đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và ung thư lần lượt là 8,3%; 8,7% và 4,7%. Tỷ lệ hút thuốc lá/lào chung là 17,6%. Hầu hết đối tượng sử dụng thuốc lá/lào là nam giới với tỷ lệ chung là 44,0% và cao nhất là trong độ tuổi từ 60 - 69 tuổi (52,8%). Tỷ lệ đối tượng sử dụng rượu bia chung là 20,9% trong đó cao nhất là nhóm 60-69 tuổi với 24,8%. Trung bình một tuần, đối tượng nghiên cứu sử dụng các thực phẩm giàu vitamin và chất xơ nhiều nhất là 23,1 ± 9,6 lần, tiếp đó là 17,8 ± 5,0 lần các thực phầm giàu glucid. Tỷ lệ thiếu hoạt động thế lực chung là 20,0% trong đó nữ giới có tỷ lệ thiếu hoạt động thể lực cao hơn nam giới. Khuyến nghị: Tăng cường hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe hiệu quả. Tăng cường quản lý và điều trị bệnh nhân ở trạm y tế xã và cộng đồng. Khám sàng lọc, phát hiện sớm bệnh lý tim mạch cho các đối tượng từ 70 tuổi trở lên. Hướng dẫn thay đổi chế độ ăn cho các trường hợp mắc khối u/ung thư.
#Bệnh không lây nhiễm #người cao tuổi #hành vi nguy cơ.
ỨNG DỤNG BỘT NGỌT TRONG CHẾ BIẾN MÓN ĂN NHẰM GIẢM TIÊU THỤ MUỐI – GIẢI PHÁP HIỆU QUẢ TRONG PHÒNG CHỐNG MỘT SỐ BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tổng quan các giải pháp giảm tiêu thụ muối và tìm hiểu khả năng ứng dụng của bột ngọt (monosodium glutamate) trong chế biến món ăn như một phương pháp giảm tiêu thụ muối. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp tổng quan các tài liệu phù hợp với các chủ đề nghiên cứu. Kết quả: Giảm tiêu thụ muối là thông điệp đã được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo nhằm giảm dự phòng và kiểm soát một số bệnh không lây nhiễm. Có nhiều phương pháp can thiệp nhằm giảm tiêu thụ muối bao gồm ghi nhãn thực phẩm, giáo dục cộng đồng, giảm dần muối mà người dùng không biết và chủ động giảm muối trong ăn uống và chế biến. Bột ngọt có bản chất là muối của glutamate và natri. Đây là gia vị đã được nhiều tổ chức y tế và sức khỏe uy tín trên thế giới và trong nước đánh giá là gia vị an toàn. Sử dụng bột ngọt trong chế biến món ăn có thể là phương pháp hiệu quả nhằm duy trì chế độ ăn giảm muối mà không làm mất đi vị ngon của món ăn. Từ đó có thể dự phòng một số bệnh không lây nhiễm. Kết luận: Có nhiều phương pháp can thiệp nhằm giảm tiêu thụ muối. Sử dụng bột ngọt trong chế biến món ăn có thể là phương pháp hiệu quả nhằm duy trì chế độ ăn giảm muối.
#Giảm tiêu thụ muối #bột ngọt #MSG #chế độ ăn giảm muối.
Nghiên cứu cắt ngang về mối quan hệ giữa bệnh nha chu và sức khỏe tổng quát: Khảo sát Chăm sóc Răng miệng Hitachi Dịch bởi AI
BMC Oral Health - Tập 21 - Trang 1-16 - 2021
Nghiên cứu cắt ngang này được thực hiện nhằm làm rõ mối quan hệ giữa bệnh nha chu và các bệnh không lây nhiễm (NCDs), chẳng hạn như béo phì, tiểu đường, rối loạn dung nạp glucose (IGT), bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) và bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch (ASCVD) thông qua việc đưa các xét nghiệm nha khoa vào các kỳ kiểm tra sức khỏe thường niên do các công ty Nhật Bản thực hiện, và nhấn mạnh tầm quan trọng của một hệ thống y tế kết nối các chuyên gia nha khoa và y tế. Tổng cộng có 1.022 nhân viên của Hitachi Ltd. đã tham gia vào nghiên cứu cắt ngang này. Chúng tôi đã kiểm tra sự tương quan và tỷ lệ odds (ORs) giữa sức khỏe răng miệng và sức khỏe tổng quát của nhân viên bằng cách sử dụng phân tầng và phân tích hồi quy logistic đa biến dựa trên các chỉ số sức khỏe nha chu, chỉ số sức khỏe tổng quát và lực cắn. OR đã điều chỉnh của PPD đối với béo phì (OR, 1.42; khoảng tin cậy [CI] 95%, 1.09–1.84; p = 0.009), IGT (OR, 1.48; 95% CI, 1.00–2.20; p = 0.049) và COPD (OR, 1.38; 95% CI, 1.02–1.88; p = 0.038) có sự khác biệt đáng kể. OR đã điều chỉnh của chỉ số khối cơ thể (OR, 1.28; 95% CI 1.15–1.42; p < 0.001), hemoglobin A1C (HbA1c) (OR, 4.34; 95% CI, 1.89–9.98; p < 0.001), mức glucose máu đói (FBG) (OR, 1.08; 95% CI 1.04–1.11; p < 0.001), tỷ lệ thể tích khí thở ra cưỡng bức sau khí dãn phế quản trong một giây/thể tích sống cưỡng bức (%FEV1) (OR, 0.95; 95% CI 0.91–1.00; p = 0.031) và hút thuốc (OR, 2.32; 95% CI 1.62–3.33; p < 0.001) đối với bệnh nha chu nghiêm trọng cũng có sự khác biệt đáng kể. Lực cắn đã giảm đáng kể ở những nhân viên từ 50–59 tuổi so với những người từ 40–49 tuổi. Cả PPD, HbA1c, và mức FBG đều có mối liên hệ đáng kể với lực cắn trong số các nhân viên bị viêm nha chu vừa và nặng. PPD có mối liên hệ đáng kể với lực cắn giữa các nhân viên bị COPD vừa và ASCVD. %FEV1 có mối liên hệ đáng kể với lực cắn trong số các nhân viên bị IGT. Nghiên cứu cắt ngang này đã tiết lộ mối quan hệ lẫn nhau giữa bệnh nha chu, NCDs và lực cắn ở công nhân tại các công ty Nhật Bản. Chúng tôi đã chứng minh rằng một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện, khu vực được xây dựng xung quanh các kiểm tra sức khỏe răng miệng và sức khỏe thể chất tích hợp hàng năm tại nơi làm việc sẽ mang lại lợi ích cho nhân viên và có ảnh hưởng tích cực đến bảo hiểm y tế của công ty.
#bệnh nha chu #bệnh không lây nhiễm #sức khỏe tổng quát #khảo sát sức khỏe #hệ thống chăm sóc sức khỏe
Tổng số: 27   
  • 1
  • 2
  • 3